VIỆC CẦN LÀM NGAY CHO LỊCH SỬ NHIẾP ẢNH VIỆT NAM
07/07/2022 17:53
0 nhận xét
729 lượt xem
Mặc dù tôi không được Hội
Nghệ sĩ NẢVN đề nghị bằng văn bản góp ý kiến về cuốn sách Lịch sử NẢVN nhưng đã
được đọc “ké” và với tư cách là Hội viên tôi mạnh dạn, đóng góp “đôi lời” cho
LSNẢVN. Thực sự, nếu không có được những động viên của người này, người khác sẽ
chẳng có bài góp ý này.
Cũng may là LS NẢVN còn ở
dạng bản thảo.
Phải nói sách LS NẢVN bản
thảo in lần thứ 7-2007 to đẹp, dày và tầm cỡ hơn bản thảo phát hành năm 1993.
Có một số thay đổi thấy ngay đó là “Lời giới thiệu” (ông Hoàng Tư Trai) bằng “Lời
nói đầu” (ông Chu Chí Thành). Nhân sự Nhóm biên soạn có thay đổi vài người. Có
điều lạ giống nhau ở chỗ cả hai lần in năm 1993 và năm 2007 là anh Nguyễn Long
và anh Lê Phức đã chết vẫn còn để tên. Nếu nói vì các anh có công biên soạn nên
để lại thì tại sao lại bỏ tên một số người khi in lần thứ 7 và thay luôn cả lời
giới thiệu ban đầu.
Nội dung toàn thể tôi đọc
chưa kỹ bởi không được phân phối sách LSNẢVN để tham khảo, nhưng một số vấn đề
nổi cộm cần nói ngay và làm ngay sau khi đọc sách LSNẢVN:
1- Sách LSNẢVN còn có những cái thiếu - sai
sót nhất là về nhiếp ảnh Sài Gòn và miền Nam. Người “chấp bút” xem ra còn thiển
cận - thiếu hiểu biết sâu sát và viết với quan điểm rất cá nhân, hẹp hòi...
Điều
này cũng dễ hiểu thôi, bởi chưa nhiều hội thảo công khai và góp ý qui mô, trách
nhiệm “rộng rãi” một cách rõ ràng, sâu sắc chuyên sâu về lịch sử NẢVN dù bản thảo
LSNẢ VN đã in tới lần thứ 7. Còn thứ lần in trước : 6-5-4-3 ... không biết hình
thức nội dung ra sao ? Ông Lê Phức có đề tựa lần nào không ?
2- Không có Nguyễn Ái Quốc ngày 5/6/1911 rời
Bến Cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) mà chỉ có Nguyễn Tất Thành “với ý chí đi tìm đường
cứu nước” rời Bến Cảng Nhà Rồng. (Lịch sử phải chân xác chứ).
3- Nguyễn Tất Thành từ Việt Nam lưu lạc qua
Anh và sau khi ở Pháp một thời gian mới có biệt danh Nguyễn Ái Quốc - Khi là
Nguyễn Ái Quốc đã là thợ ảnh vững tay nghề tại Pháp với sự giúp đỡ trợ lực nghiệp
vụ của hiệu ảnh Khánh Ký, được sự dẫn dắt, tạo cơ hội của luật sư Phan Văn Trường,
nhà trí thức Phan Chu Trinh, từng bước dân thân vào lãnh vực hoạt động chính trị
yêu nước mỗi ngày sắc nét hơn. Qua việc làm và cuộc sống hoạt động của Nguyễn
Ai Quốc, phải nói nhiếp ảnh là môi trường, là giải pháp đúng, hữu hiệu giải quyết
mặt kinh tế, còn là chuyên cớ tạo nhịp cầu hiệu quả tốt cho việc gặp gỡ móc nối,
sinh hoạt chính trị yêu nước. Có thể nói nhiếp ảnh góp phần không nhỏ cho Nguyễn
Ái Quốc trong việc tiếp thu và hình thành XHCN ở giai đoạn “Vạn sự khởi đầu
nan” vì từ Nguyễn Ái Quốc tiếp nối trở thành Hồ Chí Minh rồi Hồ Chủ Tịch tiên
phong lãnh đạo Đảng và đất nước Việt Nam XHCN.
4- Ông Đặng Huy Trứ không thể là người Việt
Nam đầu tiên đưa nghề ảnh vào Việt Nam. Đơn giản tìm thấy câu trả lời chính
trong sách LSNẢVN (trang 14, 15). Theo đó năm 1845 tác giả người Pháp Jules
Itier đã chụp ảnh tại Việt Nam trong đó có bức ảnh mang tên Đồn “Non Nay” hiện
còn lưu trữ tại Bảo tàng Pháp. “Năm 1862 Pháp chiếm thành Thăng Long - Quân viễn
chinh Pháp đến Đông Dương đã mang theo .... phát minh ấy (tức nhiếp ảnh) - Họ sử
dụng máy ảnh cho việc nghiên cứu và chinh phục thuộc địa”.
Dùng
nhiếp ảnh cho việc chinh phục thuộc địa tất nhiên người Pháp không thể không dụ
dỗ, chiêu mộ, cảm hóa một số người Việt bằng nhiếp ảnh. Để phụ việc và chụp ảnh
tiếp tay cho họ. Chưa kể làm sao tránh được một số người Việt tìm cách đến với
người Pháp, hãnh diện là đằng khác, đắc lực làm nhiếp ảnh cho Pháp.
Tới
ngày 15/3/1869 hiệu ảnh Cảm Hiếu Đường do ông Đặng Huy Trứ làm chủ mới ra đời
thì làm sao là “người Việt Nam đầu tiên đưa nghề ảnh vào Việt Nam”. Rất tiếc tới
nay không có một ảnh nào còn lưu lại từ hiệu ảnh Cảm Hiếu Đường như sách LSNẢVN
đã khẳng định (Chắc thế không ? hãy nên xét lại điều này, vì còn một ảnh Cảm Hiếu
Đường chụp rằm tháng 8 năm 1869). Có chăng ông Đặng Huy Trứ là người Việt Nam đầu
tiên mở hiệu ảnh của người Việt tại Hà Nội.
5- Sự chuẩn bị và tiến hành cho việc thành lập
Ngành nhiếp ảnh thuộc Hội Văn nghệ Giải phóng năm 1976 (tới năm 1982 chính thức
là Hội Nhiếp ảnh TP.HCM trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật TP.HCM) làm
gì có ông Nguyễn Đức Chính và Nguyễn Đặng. Trong khi đó bỏ quên các ông Trịnh
Đình Thu - Mười Hiến - Tư Thành - Chín Lượng - Đinh Phong ... thật đáng trách.
Riêng
ông Trịnh Đình Thu, nhà NẢ cao tuổi góp nhiều công lao, còn từng là ủy viên BCH
Hội NSNẢVN - Phó Tổng thư ký Hội NẢ TP.HCM ... nhưng không hề được nhắc tên.
Chưa kể ông còn là chủ hiệu ảnh Đống Đa, một “địa chỉ đỏ nhiếp ảnh” quan trọng,
qui mô duy nhất ở Sài Gòn và có thể nói của cả miền Nam trước 30/4/1975. Nhưng
cũng bị quên luôn. Đây là điều quá cụ thể và hiển nhiên mà còn mập mờ thiếu sót
hoặc không được kể tới, huống chi những chuyện, sự việc nhiếp ảnh khác. Điều
này đã gây sốc mạnh, khiến nhà nhiếp ảnh cao tuổi Trịnh Đình Thu (87 tuổi) bức
xúc và đã nói trong CLB Nhiếp ảnh Người cao tuổi Sài Gòn và một số anh em nhiếp
ảnh là làm đơn xin ra khỏi Hội nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam cho rồi vì không thể
chấp nhận kiểu “ăn cháo...” hay “qua cầu...”.
6- Không cần liệt kệ thành tích cá nhân và
triển lãm ảnh cá nhân trong sách LSNẢVN bởi lẽ không bao giờ đủ và tính chính xác
có được bao nhiêu phần trăm? Có cá nhân tác giả nói đạt cả trên 150 giải ảnh quốc
tế. Người khác lãnh cỡ 200 giải ảnh trong nước. Nhưng bằng chứng có tại cơ quan
thẩm định và lưu trữ ở Hội, hỏi được 50% không? Việc này chỉ làm dày sách, thêm
số trang tốn tiền không giá trị gì. Còn làm cớ cho sự thắc mắc và lộ rõ cái thiếu
sót.
7- Nói đến triển lãm ảnh không thể nào quên
được trước 30/4/1975 đã có tới 6 kỳ thi và triển lãm ảnh quốc tế tầm cỡ tại Sài
Gòn. Ngày khai mạc rất long trọng, hoành tráng và trong suốt thời gian triển
lãm, cờ các nước tham dự đều được treo đồng loạt ngang bằng nhau trong đó có cờ
của Ba Lan - Hung Gia Lợi (Hungari) - Tiệp Khắc. Không có phân biệt giới tuyến
hay chủ nghĩa trong nghệ thuật nhiếp ảnh.
8- Nhắc tới nhiếp ảnh quốc tế làm sao lại có
thể viết quá sơ sài về lực lượng nhiếp ảnh Việt Nam được chi viện hoặc đi làm
công tác nghiệp vụ tại Đông Dương cụ thể là hai nước anh em Lào và Cao Miên
(nay là Campuchia). Thậm chí có một vị trong hàng Lãnh đạo ngành Công An và Tòa
Án qua hai cuộc kháng chiến từng lấy nghề nhiếp ảnh để, vừa mưu sinh vừa làm vỏ
bọc Hoạt động Cách Mạng và làm Kinh tế cho Đảng tại Sài Gòn, sau tại Chiphou
bên Cao Miên nhưng tại sao trong sách LSNẢVN lại không hề nhắc đến một chữ nào
???.
9- Chỉ nên thống kê có hệ thống khoa học các
cuộc triển lãm và thành tích cá nhân qua các cuộc thi ảnh, giải xuất sắc cấp quốc
gia và quốc tế do Hội nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam tổ chức. Có chăng, thêm phụ lục
một tổng hợp khái quát về các cuộc thi ảnh cấp tỉnh, thành, khu vực định kỳ hoặc
các dịp đặc biệt nào đó. Nếu các cuộc thi có sự bảo trợ của Hội NSNẢVN càng
hay. Thành tích cá nhân nếu thực sự nổi bật cũng chỉ làm công việc điểm tin
thôi.
10- Nói về LSNẢVN cần gì phải “dài dòng” lê
thê cách chung chung, đề cập tới các cơ quan, hệ thống báo chí của Đảng, Nhà nước
từ TW đến địa phương (trang 93)? Có chăng là chỉ nên giới thiệu, phân tích các
tạp chí, báo chuyên về nhiếp ảnh.
11- Không đúng lắm và càng không thuyết phục
khi xác lập kể tên một số người được dẫn chứng nói rằng “Xuất hiện các nhà nhiếp
ảnh trẻ đáng kể được đào tạo sau khi thống nhất đất nước. Họ đã thực sự góp phần
vào việc hợp thành và phát triển khuôn mặt
mới của nhiếp ảnh nước ta” (trang 94). Nói thế thì lớn lao quá !
12- Một số tên tác giả cũng chỉ là do người
“chấp bút” chủ quan cá nhân nên đã được đưa vào “đội ngũ, những người viết chủ
yếu và là người thường xuyên có các bài viết trên tạp chí” về nhiếp ảnh? (trang
98) chính bản thân họ khi được biết “là thế” cũng chẳng chút “vui lòng”.
13- Theo hiệp định Geneve 54, Việt Nam chia
đôi trở thành 2 nước Việt Nam (phía Bắc và phía Nam). Việt Nam đã thống nhất 33
năm rồi đang trên đà phát triển, hội nhập, ra biển lớn, toàn cầu hóa. Lịch sử NẢVN
không lẽ chỉ có miền Bắc. Về thể thao, thơ, văn, nhạc, điện ảnh, sân khấu ... đều
đã ghi nhận và phổ biến những thành quả tốt của miền Nam trước 30/4/1975 còn
nhiếp ảnh trong sách LSNẢ tại sao còn cục bộ ? Nhiếp ảnh miền Nam được đề cập rất
sơ sài lại còn nhiều sai sót... ( Nên thẩm xét lại toàn diện vấn đề này !!!.)
14- Phải công bằng và trung thực nếu liệt kê
thành tích nhiếp ảnh Việt Nam, nhất là về nghệ thuật trong 30 năm (1945-1975) của
cả hai thời kỳ chiến tranh phải nói miền Nam vượt trội hơn miền Bắc nhiều, cả về
số lượng lẫn chất lượng ở trong nước, nhất là quốc tế. Sách LSNẢVN đâu làm thống
kê cụ thể gì, chỉ nhắc qua loa, cho có về nhiếp ảnh Sài Gòn và phía Nam.
15- Dùng từ “các tờ báo hình ảnh” gắn cho một
số báo thời vụ đang được phổ biến thì không được chỉnh lắm. Báo nào chẳng đăng,
in nhiều hình ảnh. Nhất là ảnh thời trang, người đẹp, nhà đẹp đủ kiểu ...
(trang 95). Chỉ nên đề cập và giới thiệu sách, báo chuyên về nhiếp ảnh, không cần
phân tích sách ảnh mang tính cục bộ, nhất thời.
16- Hội nhiếp ảnh KBC thực chất được lập ra
theo kiểu phong trào cho có, chứ làm gì có vai trò, nhiệm vụ ghê gớm “lớn lao”
như cách “suy diễn - luận tội” hồ đồ của người viết gán cho thế này thế nọ. Tại
sao không đề cập tới Hội nhiếp ảnh Việt Nam (ông Nguyễn Lê Giang - Hộị trưởng),
Hội nhiếp ảnh Nghệ thuật (Lê Văn Khoa - chủ trì) và Trung tâm Nghiên cứu và
Phát triển Nhiếp ảnh TP.HCM (Lâm Tấn Tài là giám đốc).
Ảnh
trong sách “Việt Nam khói lửa” chỉ là ảnh riêng của cá nhân ông Hạnh không có
chuyện “Ông Nguyễn Ngọc Hạnh tập hợp những ảnh...” (trang 83.)
Dùng
từ Câu lạc bộ Nhiếp ảnh của Hội Việt Mỹ là không đúng - Bởi CLB không có chức
danh Chủ tịch. Chủ tịch chỉ dành cho Hội. Kết luận “Văn học nghệ thuật, nhiếp ảnh
vùng tạm chiếm” là “hụt hẫng, lạc lõng, bế tắc và phân hóa quyết liệt...” phải
xét lại vì nông cạn và “Hụt hẫng” ngay ở lời kết luận. (trang 82).
17- Thành phần giảng viên đứng lớp nhiếp ảnh từ
trước tới nay được nêu đích danh trong sách LSNẢVN không nhiều lắm. Riêng trường
Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật TP.HCM được nâng lên từ trường Trung cấp VHNT, có
khoa nhiếp ảnh chỉ có 3 giảng viên được nêu tên còn có mấy giảng viên khác có
giờ dạy nhiều hơn, thâm niên hơn, lại có phần vụ điều hành khoa, quản lý lớp (lại
không được nhắc tên).
18- Nên nhớ:
Hội nhiếp ảnh TP.HCM được xem là nơi mở lớp đào tạo qui mô, liên tục, lâu năm
nhất (từ 1979 và đang tiếp tục) của cả nước. Gồm trên 20 giảng viên đứng lớp
cho 3 cấp 1-2-3 và 2 lớp chuyên sâu chân dung và xử lý ảnh. Mỗi cấp, mỗi lớp học
liên tục mỗi ngày kết thúc 1 tháng vài ngày (không còn 2 tháng từ cả 10 năm rồi).
Chưa kể từng có các trại sáng tác, lớp bồi dưỡng nghiệp vụ Hội đồng Giám khảo -
Thành phần học viên đa dạng, phong phú cả về tuổi tác lẫn vị thế xã hội. Từ 10
tuổi tới 70 tuổi, đủ cả : Học sinh - sinh viên - công nhân - viên chức - công
an - bộ đội - nhà báo - nhà giáo - nhà thơ - nhạc sĩ - diễn viên - ca sĩ - bác
sĩ - kiến trúc sư - kỹ sư - doanh nhân - tu sĩ - người bình thường ... hàng chục
vạn người đã học NẢ tại đây. Giảng viên của Hội NẢ TP.HCM còn giảng dạy ở các
nơi như Đại học Nhân Văn, Tôn Đức Thắng, Mỹ Thuật, Văn Lang - Cao đẳng VHNT, Điện
ảnh Sân khấu ... rồi tại Trung tâm dạy nghề, Trung tâm văn hóa - Nhà Văn hóa. Đặc
biệt tại các trại sáng tác khu vực, lớp nhiếp ảnh địa phương trên 40 tỉnh
thành. Có nơi nào hướng dẫn nhiếp ảnh liên tục dài hơi gần 30 năm, tiếp tục
đang trên đà phát triển, như tại Hội NẢ TP.HCM. Đây phải được coi là điểm vàng về đào tạo nhiếp ảnh của cả
nước. Như thế Hội NẢ TP.HCM không hơn bất kỳ nơi dạy nhiếp ảnh nào khác kể cả ở
trường học lẫn thông tấn hay sao? Vậy mà trong sách LSNẢVN không hề nêu tên một
giảng viên nào (có lẽ tại người biên soạn không được đứng lớp ở đây?) lại dùng
hai từ “dạy nghề” có vẻ “thấp” kiểu kinh tế thị trường là không hay ho gì.
19- Nói thêm, nhiều nhà nhiếp ảnh thành danh
trong 25-26 năm qua (đã từng là học viên ở đây) đã đoạt nhiều giải thưởng quốc
tế và trong nước - sớm trở thành Hội viên nhiếp ảnh trong nước và quốc tế với
các tước hiệu cao quí A - E - Hon... Một số đã, đang là ủy viên BCH - HĐNT -
HĐGK - BKT - Giảng viên nhiếp ảnh thuộc Hội NẢ TP.HCM. Hội nghệ sĩ NẢVN ... Hoặc
trở thành những cây bút, nhà nhiếp ảnh tên tuổi trên nhiều lãnh vực liên quan tới
nhiếp ảnh...
20- Nói đến việc đào tạo nhiếp ảnh không thể
quên một thời ở thập niên 80 sôi nổi ở Hội Liên hiệp Thanh niên VN TP.HCM. Trước
đó là các lớp nhiếp ảnh được tổ chức “rôm rả, bài bản” tại Trung tâm sinh hoạt
Thanh niên (nay là Văn hóa Thanh niên) số 4 Duy Tân (nay là Phạm Ngọc Thạch)
(1977-1990) tiền thân của các lớp nhiếp ảnh tại Hội NẢ TP.HCM. Giáo trình căn bản
và chính thống của các cấp 1-2-3 của Hội NẢ TP.HCM cũng từ các khóa nhiếp ảnh
Nhà Văn hóa Thanh niên TP.HCM. Sao chẳng có dòng chữ nào được đề cập ở sách LSNẢVN?.
21- Càng đọc và đọc với cái tâm, cái đức càng
thấy cuốn sách sơ thảo về LSNẢVN càng cần phải làm sao vừa có khoa học vừa có
trách nhiệm đúng mức hơn - bởi LSNẢVN không phải cho hôm nay, mà phải được trường
tồn với thời gian và không gian mang đúng tầm vóc dân tộc Việt Nam xuyên suốt
nhiều thế kỷ chứ không phải của riêng một thời đại nào. Người viết lịch sử phải
có cái tâm, cái tầm đích thực. Viết sai về khoa học kỹ thuật là dốt, còn viết sai về
lịch sử là đắc tội...
22- Làm việc một cách khoa học và trách nhiệm
để đi đến hoàn chỉnh hơn cho sách LSNẢVN tôi đề nghị các bước tiến hành cụ thể
như sau :
-
Nâng Nhóm biên soạn thành Ban nghiên cứu LSNẢVN (nhân sự có thể thay đổi. Trước
hết phải thay người “chấp bút” chính viết về nhiếp ảnh Sài Gòn và phía Nam -
nên có nhà nghiên cứu lịch sử) - Văn phòng đặt tại Hà Nội.
-
Lập 3 Tiểu ban trực thuộc Ban nghiên cứu phụ trách khu vực: phía Bắc tại Hà Nội
- miền Trung tại Huế và phía Nam tại TP.HCM.
-
Thành viên gồm những người (có thể không phải là hội viên của Hội) tự bản thân
họ sống và hoạt động với nhiếp ảnh lâu năm - vốn hiểu biết về nhiếp ảnh sâu sắc
(tự có hoặc do tích lũy viết, đọc hay sưu tầm...)
-
Phân công phần vụ, chịu trách nhiệm rõ ràng (có chức, có quyền) - Làm việc có
hưởng thù lao tương xứng.
-
Các bài gửi đóng góp tùy mức độ được sử dụng một phần, bán phần, toàn phần, có
nhuận bút đặc biệt trao cho tác giả (Sòng phẳng và công bằng).
-
Bước đầu thời gian 3 tháng (Quý II-2008), Ban nghiên cứu rà soát - phân tích -
chỉnh sửa - tổng hợp - đánh giá - gạn lọc và đúc kết từng bài từng chương mục
và toàn thể bản thảo in lần thứ 7 sách NSNẢVN.
-
Bước hai mở các cuộc hội thảo chuyên sâu công khai với thành phần hữu cơ liên đới
theo miền về LSNẢVN của miền đó, qua các thời kỳ với nội dung : Hội nhập - Xây dựng – Tổ chức - Thành quả -
hoạt động, phát triển tương lai theo từng mốc thời gian:
*
Từ 1869 - 1900 * Từ 1900 – 1945
*
Từ 1945 - 1954 * Từ 1954 - 1975 *
Từ 1975 – 2007
Hội
thảo công khai diễn ra dưới hình thức : báo cáo - trao đổi góp ý - đúc kết.
Ở
miền Bắc trong Quý III/2008 - ở miền Nam trong Quý IV/2008.
Ở
miền Trung trong Quý 1/2009 - Đúc kết và in ấn trong quý II + III/2009.
Lời
nói đầu phải mang tính tập thể (Ban nghiên cứu LSNẢVN).
Phát
hành sách LSNẢVN chính thức (in lần thứ I) nhân Đại Hội VII hội NSNẢVN tháng
12/2009 hoặc ngày 15/3/2010 (ngày nhiếp ảnh Việt Nam).
Năm
2008 - 2009, Hội cần đặt trọng tâm lớn vào việc phải làm cho được “ra ngô, ra
khoai” một cách công khai, lương tâm và trách nhiệm để hoàn tất tốt đẹp sách
LSNẢVN. Đừng chậm trễ và làm kiểu cho xong, sẽ đắc tội với lịch sử.
Biết
bao người tâm huyết bằng cả tấm lòng, có khả năng sẵn sàng góp phần. Chỉ chờ Hội,
có quan tâm trân trọng đối xử và mời cộng tác hay không.
23- Bản thảo LSNẢVN in tới lần thứ 7 không hề
đề cập gì tới Đại hội VI (2005- 2010) cũng lạ. Đến bây giờ còn sử dụng mấy từ
chia rẽ, dễ làm mất đoàn kết như: nhiếp ảnh vùng tạm chiếm, nhiếp ảnh thời thời
kỳ Mỹ - Ngụy thật khó hiểu quá!
Còn
nhớ thập niên 80-90 cái xấu như đĩ - điếm - xì ke, ma túy - trộm cướp... y như
rằng báo chí, ngôn luận công cộng... kết án ngay đó là tàn dư mỹ ngụy, chế độ
cũ để lại... nhưng rồi, khi những băng cướp áo trắng, xã hội đen, ma cô của
thanh thiếu niên, hối lộ, tham nhũng... các tệ nạn xã hội hơi bị nhiều từ 20
năm qua và đến nay ai dám nói, báo nào còn dám dùng từ “đó là tàn dư...”.
Phi
công (kẻ thù) dội bom xuống Hà Nội đã trở thành Đại sứ Mỹ đầu tiên tại Việt Nam
sau ngày thống nhất đất nước 30/4/1975, được trân trọng và làm việc ngay tại Thủ
đô Hà Nội. Còn đó vết thương đau năm 1979 Trung Quốc kéo quân qua đánh phá miền
Tây Bắc Việt Nam, đã tới Sapa... rồi hiện nay Hoàng Sa, Trường Sa... vậy mà ta
đã dễ “khép lại quá khứ”, dễ hòa hoãn với kẻ thù, với ngoại bang nhưng lại hay
làm khó nhau, gây bất hòa lâu dài “ta với ta” cùng giòng máu Việt, cùng giới
nhiếp ảnh như thế sao! Các nhà nhiếp ảnh Việt Nam chân chính, tâm huyết và nhân
bản dân tộc không thể chấp nhận kiểu mất gốc, hãy bỏ những từ “nhiếp ảnh vùng tạm
chiến, nhiếp ảnh thời Mỹ - Ngụy ... hãy trân trọng nhau, đừng làm mất lòng nhau
chỉ vì “con sâu làm rầu nồi canh”. Hội đâu có chủ trương và quan niệm như vậy -
chính sách của nhà nước còn cao và rộng - sâu hơn nữa hội nhập và ra biển lớn
“toàn cầu hóa” kia mà. Nhà nước càng không bao giờ “nhỏ nhen” và thất nghĩa. Thực
tế trong cuộc sống đời thường đa phần giới nhiếp ảnh sống không phân biệt, đối
xử rất hài hòa - vị tha chân tình các mặt, không định kiến - không hề đố kỵ, tị
hiềm nhỏ nhen gì - nhưng đọc sách LSNẢVN thấy buồn quá.
24- Ảnh viện dẫn về Cách Mạng Tháng 8 chỉ có 4
ảnh (trang 137-138). Ảnh xây dựng đất nước có 7 ảnh (trang 171-172-173-174) quá
ít so với ảnh các nhà nhiếp ảnh đã hy sinh tới 16 ảnh (từ trang 210 đến 226).(Cũng
nên thẩm xét lại toàn diện vấn đề này.)
-
Số các nhà nhiếp ảnh tiêu biểu từ (trang 203 đến 207) có cần xem xét lại ?
-
Nhà nhiếp ảnh tự làm hoen ố cái tâm, cái đức của mình vì “chấm ảnh của mình” (đề
tên con) bị phát hiện và bị hủy giải có còn xứng đáng nằm trong danh sách “những
nhà nhiếp ảnh tiêu biểu” không?.
-
Ảnh Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu (Nguyễn Văn Thông chỉ mới phổ biến sau
năm 1980 - trang 157) vì đạo pháp xếp vào chương mục “Ảnh kháng chiến chống Mỹ”
là hoàn toàn không đúng, lại còn làm sai lệch ý nghĩa đích thực của thời cuộc lịch
sử Sài Gòn 1963.
-
Ảnh “Xẻ dọc trường sơn đi cứu nước” (Minh Trường) và ảnh “Đánh chiếm căn cứ Đầu
Mầu” (Đoàn Công Tính) đã được giải quyết rốt ráo và xóa bỏ được sự bất đồng và
nghi ngờ chưa?
-
Tấm ảnh lịch sử quí hiếm “Xe dẫn đầu đoàn quân tiến vào Hà Nội ngày 10/10/1954
là của ai đích thực: Đào Trình hay Nguyễn Trung Kiên. Ảnh này in lớn ở trang nhất
báo Lao Động cuối tuần số 39 ngày 05/10/2007 ghi tác giả là Đào Trình. Nhưng
ngay số báo Lao Động tiếp theo số 40 ngày 12/10/2007 có lời đính chính của báo
ghi ảnh đó là của tác giả Nguyễn Trung Kiên. Tiếp ngay sau đó, tác giả Đào
Trình đã làm đơn khiếu nại gửi cho báo và với tư cách Hội viên ông Đào Trình đã
gửi bản tường trình và đơn đến Hội nghệ sĩ NẢVN và Hội nhiếp ảnh TP.HCM, đưa bằng
chứng cụ thể xin được xác nhận và phán quyết - đến nay sao rồi?
Viết
lịch sử về giải phóng Hà Nội mà thiếu ảnh đó sao được.
25- Đọc một số bài viết, biên soạn trong sách
LSNẢVN nhất là về miền Nam, nhận ra ngay đa phần chỉ mang tính cách cá nhân do
sự hiểu biết nông cạn hoặc hỏi người này người kia, sao chép lại chỗ này chỗ
khác, nặng phần “là bản báo cáo hoặc chỉ là bài báo” chứ không phải bài lịch sử
và chắc chưa được kiểm tra thẩm định và phê duyệt đích thực - Chính vì vậy sách
LSNẢVN còn những sai - sót là lẽ tự nhiên. Đây mới là bản thảo mặc dù đã in tới
lần thứ bảy. Nếu tính sơ sơ chắc đã nhiều hao tổn cả về công sức một nhóm người,
lẫn tiền bạc của chung nhưng thực sự chưa đáp ứng được điều ước mong về LSNẢVN
tầm cỡ, đúng nghĩa. Tiếc là những lần in thứ mấy gì đó (sau năm 1993 và trước
2007) đã không có việc mở rộng sự góp ý cách qui mô và khoa học - chính là do
công việc tiến hành trước đây vừa chậm - vừa cục bộ - vừa ỷ y - vừa thiếu ngân
khoản. Cụ thể đáp ứng ...vừa ...
Bây
giờ cần sự “siết tay” chung sức hợp lòng hơn nữa, làm tới nơi tới chốn về LSNẢVN
không thì đã muộn.
LSNẢVN
phải được tiến hành nghiêm túc, lương tâm, khoa học, trung thực, trách nhiệm và
hiệu quả hơn nữa.
LSNẢVN
không phải chỉ cho hôm nay, cho bất cứ thời đại nào. Mà LSNẢVN phải đồng hành
xuyên suốt với thời gian và không gian mang đậm bản sắc dân tộc.
Đừng
để thế hệ mai này, mươi mười lăm năm sau thôi, đã có ai đó dễ dàng nhận ra về sự
sai sót sơ đẳng trong sách LSNẢVN, rồi nói ra, viết ra (như thể một phát hiện mới)
hoặc coi sách( LSNẢVN cũng chỉ thế thôi) thì thật đáng buồn biết bao!
Chúng
ta chớ để phải mắc tội với lịch sử vì những lý do không đáng gì.
Đó
là tâm huyết, là tấm lòng tôi muốn góp ý và mong rằng sách LSNẢVN phải là một
công trình lớn. Tất nhiên tốn kém bởi giá trị hơn gấp bội so với việc tài trợ
sáng tác, giải xuất sắc quốc gia, liên hoan ảnh toàn quốc hàng năm...
Trong
khi tiến hành hoạt động của tổ chức, việc trước mắt cần làm ngay : Hội thiết lập
hộp thư, rồi trên trang Web và Tạp chí Nhiếp ảnh của Hội mở chuyên mục “Diễn
đàn lịch sử nhiếp ảnh Việt Nam”...
Trân trọng.
VŨ
HÂN
(TP.HCM
- Tháng 02/2008)
Nói thêm
: - Ảnh “Đánh Chiếm Căn Cứ Đầu Mầu” của Đoàn Công Tính trong sách LSNẢVN
là không chính xác về địa danh. Thực ra đây là địa danh ĐẦU MÂU chứ không phải
Đầu Mầu ( MÂU đúng, Mầu sai.)
ĐẦU MÂU là một mỏm núi mà
Chúa NGUYỄN PHÚC NGUYÊN sai ĐÀO DUY TỪ đắp chiến lũy từ đấy đến cửa Nhựt Lệ Quảng
Bình. Sau này quân Pháp có đóng đồn tại mỏm ĐẦU MÂU đó. (Khắp cả miền Trung chỉ
có một địa danh ĐÂU MÂU mà thôi !.)
Như vậy, ĐẦU MÂU là Địa
Danh Lịch sử trên dưới 400 năm.
Còn riêng nội dung ảnh
“Đánh Chiếm Căn Cứ Đầu Mầu” cần phải thẩm định lại tính xác thực của nó. Bởi Lịch
sử là phải đúng sự thật nhất là hình ảnh ghi lại các sự kiện Lịch sử đó. Không
thể có lịch sử dàn dựng thô thiển !!!...
ƯNG
VIÊN NGUYỄN PHÚC HẢO
Dẫn nguồn:
https://vanminhsucsongviet.com/blog
https://vanminhsucsongviet.net/blog
THẢO LUẬN
Chưa có nhận xét cho Bài viết này.