Về câu chuyện LÊ VĂN TÁM
06/07/2022 17:23
0 nhận xét
716 lượt xem
... Theo quan điểm của tôi, mọi biểu tượng hay tượng đài lịch sử chỉ có sức sống bền bỉ trong lịch sử và trong lòng dân khi được xây dựng trên cơ sở khoa học khách quan, chân thực.
PHAN HUY LÊ
Bấy giờ là vào đầu những năm 60 của thế kỷ trước, tôi có nhiều dịp làm việc với GS Trần Huy Liệu trong công trình khoa học do GS chủ trì và tôi được mời tham gia. Lúc đó, GS Trần Huy Liệu là Phó chủ nhiệm Ủy ban khoa học xã hội, kiêm Viện trưởng Viện sử học. Ngoài những buổi họp ban biên soạn ở cơ quan, tôi có một số buổi làm việc với GS tại nhà riêng. Ngoài công việc biên soạn công trình, GS thường trao đổi một cách thân tình những vấn đề thời sự sử học trong và ngoài nước, kể lại một số chuyện trong đời hoạt động cách mạng của mình. Trong những năm 1954-1956, khi tôi đang học ở trường Đại học Sư phạm/văn khoa Hà Nội, GS Trần Huy Liệu có đến giảng một số bài về cách mạng Việt Nam.
Về câu
chuyên Lê Văn Tám, tôi xin được tóm lược một cách đầy đủ lời kể và lời dặn của
GS Trần Huy Liệu mà tôi đã lĩnh hội như sau: nhân vụ kho xăng của địch ở Thị
Nghè bị đốt cháy vào khoảng tháng 10-1945 và loan tin rộng rãi trên báo chí
trong nước và đài phát thanh của Pháp, đài BBC của Anh, nhưng không biết ai là
người tổ chức và trực tiếp đốt kho xăng nên tôi (GS Trần Huy Liệu) đã dựng lên
câu chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng vào người rồi xông vào đốt kho xăng địch
cách đấy mấy chục mét. GS còn cho biết là sau khi ta phát tin này thì đài BBC
đưa tin ngay và hôm sau bình luận là một cậu bé tẩm xăng vào người rồi tự đốt
cháy thì gục ngay tại chỗ hay nhiều lắm chỉ lảo đảo được mấy bước, không thể chạy
được mấy chục mét đến kho xăng. GS tự trách là vì thiếu cân nhắc về khoa học
nên có chỗ chưa hợp lý. Đây là ý kiến của GS Trần Huy Liệu mà sau này tôi cố
trao đổi với vài bác sĩ để xác nhận thêm.
Tôi nhấn mạnh
là GS Trần Huy Liệu không hề “hư cấu” sự kiện kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt
cháy mà trên cơ sở sự kiện có thật đó, chỉ “dựng lên”, theo cách nói của GS,
chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng đốt cháy kho xăng địch. GS giải thích là
thời Nam bộ kháng chiến, có bao nhiêu tấm gương hi sinh vì Tổ quốc, nhưng “dựng”
chuyện thiếu niên Lê Văn Tám là nghĩ đến biểu tượng cậu bé anh hùng làng Gióng
(Phù Đổng Thiên Vương), còn việc đặt tên Lê Văn Tám là vì họ Lê Văn rất phổ biến
ở nước ta và Tám là nghĩ đến Cách mạng tháng Tám. Lúc bây giờ GS Trần Huy Liệu
đang giữ chức Bộ trưởng Bộ thông tin tuyên truyền trong Chính phủ lâm thời nên
GS nói rõ là muốn tạo dựng nên một biểu tượng anh hùng để tuyên truyền, cổ vũ
tinh thần chiến đấu của quân dân ta. Cũng xin lưu ý là GS Trần Huy Liệu giữ chức
Bộ trưởng Bộ thông tin tuyên truyền trong Chính phủ lâm thời từ ngày 28-8-1945
đến ngày 1-1-1946, rồi Bộ trưởng Bộ tuyên truyền cổ động trọng Chính phủ liên
hiệp lâm thời từ ngày 1-1-1946 cho đến khi thành lập Chính phủ liên hiệp kháng
chiến tại kỳ họp Quốc hội ngày 2-3-1946, nghĩa là trong thời gian xảy ra sự kiện
Kho xăng Thị Nghè bị đốt cháy, chứ không phải trong thời gian “1946-1948?” sau
sự kiện trên.
Điều căn dặn
của GS Trần Huy Liệu là: sau này khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học,
các anh nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa. Trong câu chuyện, GS
còn tiên lượng là biết đâu sau này có người đi tìm tung tích nhân vật Lê Văn
Tám hay có người lại tự nhận là hậu duệ của gia đình, họ hàng người anh hùng.
Đây chính là điều lắng đọng sâu nhất trong tâm trí tôi mà tôi coi là trách nhiệm
đối với GS Trần Huy Liệu đã quá cố và đối với lịch sử. GS Trần Huy Liệu là một
con người rất trung thực, không muốn để lại một sự ngộ nhận trong lịch sử do
mình tạo nên trong một bối cảnh và yêu cầu bức xúc của cuộc kháng chiến và tôi
lĩnh hội lời dặn của GS như một trách nhiệm phải thực hiện một cách nghiêm túc.
Trên đây
là tôi trình bày tóm tắt nội dung câu chuyện Lê Văn Tám theo lời kể và lời dặn
của GS Trần Huy Liệu. Tôi kể lại câu chuyện này một cách trung thực với tất cả
trách nhiệm và danh dự của một công dân, một nhà sử học.
Ngày nay,
từ đầu thế kỷ XXI nhìn lại, trong hoàn cảnh chiến tranh đã lùi xa vào quá khứ
hơn 30 năm, đất nước đã giành lại độc lập, thống nhất, tôi xin đặt ra hai vấn đề
sau đây để thế hệ chúng ta cùng bàn luận.
- Xác minh
rõ sự kiện Kho xăng địch bị đốt cháy trong tháng 10-1945.
- Thái độ ứng
xử đối với biểu tượng Lê Văn Tám.
Vấn đề thứ nhất là cần cố gắng sưu tầm các tư liệu đáng tin
cậy để xác định rõ hơn sự kiện Kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt cháy trong tháng
10-1945.
Tôi nói tư
liệu đáng tin cậy trong trường hợp này không phải là các sách báo viết về sau
này mà là tư liệu gốc khai thác từ nhân chứng lịch sử hay những thông tin trực
tiếp từ sự kiện thời bấy giờ và dĩ nhiên đều phải đối chiếu, xác minh một cách
khoa học.
Về nhân chứng
lịch sử, tôi đã có dịp hỏi GS Trần Văn Giàu lúc đó giữ chức Chủ tịch Ủy ban
kháng chiến Nam bộ thì GS khẳng định có sự kiện Kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt
cháy và trong tình hình lúc đó là do ta đốt, nhưng không biết ai tổ chức và người
nào thực hiện.
Nhà cách mạng
lão thành Dương Quang Đông trong hồi ký viết rằng, người đốt Kho đạn Thị Nghè
ngày 1-1-1946 không phải là Lê Văn Tám mà là tổ đánh mìn của công nhân nhà máy
đèn Chợ Quán (tạp chí Xưa&Nay số 154 (202)-2003).
Còn tư liệu
báo chí lúc bấy giờ thì tại Thư viện quốc gia Hà Nội lưu giữ được rất ít, các số
báo lại không đủ. Bước đầu tôi mới tìm thấy thông tin liên quan với Kho xăng Thị
Nghè bị đốt cháy trong báo Quyết chiến là “cơ quan ủng hộ chính quyền nhân
dân”, tòa soạn đặt ở phố Nguyễn Tri Phương, Thuận Hóa; báo Cờ giải phóng là “cơ
quan tuyên truyền cổ động trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương” và báo Thời mới
do Nguyễn Văn Luận làm Chủ nhiệm; nhưng các số không liên tục, không đủ.
Báo Quyết
chiến số ngày thứ sáu, 7-10-1945 đưa tin dưới tít lớn Một chiến sĩ ta tẩm dầu vào mình đốt cháy kho dầu Simon Piétri với
nội dung như sau: “Một gương hi sinh vô cùng dũng cảm. Một chiến sĩ ta tẩm dầu
vào mình tự làm mồi lửa đã đốt được kho dầu Simon Piétri, lửa cháy luôn hai đêm
hai ngày. Đài Sài Gòn trong buổi truyền thanh tối 17-10 công nhận rằng kho dầu
này đã hoàn toàn bị thiêu ra tro, sự thiệt hại đến mấy chục triệu đồng”. Ngày
phát hành số báo, in ngày “thứ sáu”, số ngày không rõ và có người viết thêm bút
mực con số 7, tiếp theo là tháng “10-45”. Theo lịch năm 1945, trong tháng 10 có
3 ngày thứ sáu là ngày 12, 19 và 26. Trong bản tin có nhắc đến buổi phát thanh
của Đài Sài Gòn ngày 17, vậy ngày thứ sáu của tờ báo phải sau ngày đó và. có thể
xác định là ngày 19-10-1945.
Báo Thời mới số 6 ngày 28-10-1945, nhân lễ
khai mạc Ngày Cứu quốc do Tổng hội sinh viên cứu quốc tổ chức, đăng bài Những chuyện cảm động của dân ta trong cuộc
kháng chiến ở Nam bộ, có đoạn kể lại câu chuyện đốt kho xăng ở Sài Gòn theo
lời kể của một người từ Nam bộ ra Hà Nội ngày 21-10-1945 như sau: “Một người bạn
tôi ở Nam bộ vừa ra đây hôm hai mươi mốt kể cho tôi nghe nhiều điều tai nghe mắt
thấy ở Nam bộ để chứng cho cái tinh thần kháng chiến anh dũng đó. Thứ nhất là
chuyện anh dân quân tẩm dầu vào người, đốt cháy kho ét-săng và cao su sống ở
Sài Gòn. Có người nói rằng nhà chiến sĩ tuẫn quốc này tự nguyện xin mặc áo bông
dầy tẩm xăng rồi lấy lửa tự châm mình như một cây đinh liệu, xông vào kho cao
su sống kia. Không phải thế. Làm thế thì cố nhiên giặc Pháp ngăn lại ngay từ
khi chưa tới cửa kho. Thực ra thì nhà chiến sĩ của chúng ta phải dùng mưu nhiều
lắm. Trước khi vào, anh em mọi Pleiku của chúng ta đã phải lừa lúc giặc Pháp
canh phòng không cẩn thận trèo lên những cái cây to ở xung quanh kho cao su, bắn
tên độc vào những người gác ở bốn bề. Nhà chiến sĩ, nhằm chính lúc cơ hội thuận
tiện đã đến, tẩm dầu vào người, đeo súng liên thanh, bò qua tường vào trong kho
cao su tìm bắn những người Pháp. Chúng bâu lại như đàn ruồi. Chiến sĩ Việt Nam
biết không thể làm hơn được nữa, bắn lia lịa vào những thùng ét-săng ở hai bên,
ét-săng tràn ra cả nhà. Chiến sĩ ta châm một mổi diêm vào người, nhảy lên đám
thùng rỗng, chửi rủa giặc Pháp tàn tệ. Trong lúc đó, cả mình mẩy anh bừng bừng
lên. Anh vẫn chửi rủa giặc Pháp cho đến khi gục nằm xuống như một đấng thiên thần
hiện ra rồi mờ đi trong giấc mơ dữ dội. Những người đứng xa ngoài ba mươi cây số
còn trông thấy ngọn lửa đám cháy này và trong hai ba ngày đêm liền, giặc Pháp
và phái bộ Anh không thể nào dập tắt”.
Báo Cờ giải
phóng số ra ngày 25-10-1945, đưa lên trang đầu hình ảnh một người đang bốc cháy
xông về phía trước kèm theo lời "Tinh thần anh dũng của đồng bào Nam bộ
muôn năm".
Báo Cờ giải
phóng ngày 5-11-1945, trong mục Mặc niệm: “trích đăng một vài tấm gương xung
phong anh dũng đã được nêu lên trên mặt báo chí miền Nam”, có đoạn đưa tin:
“Trước kho đạn Thị Nghè có rất đông lính Anh, Ấn, Pháp gác nghiêm ngặt, khó bề
đến gần phóng hỏa. Một em thiếu sinh 16 tuổi, nhất định không nói tên họ, làng,
tình nguyện ra lấy thân mình làm mồi dẫn hỏa. Em quấn vải quanh mình, tẩm dầu
xăng, sau lưng đeo một cái mồi, đứng im đốt mồi lửa, miệng tung hô “Việt Nam vạn
tuế”, chân chạy đâm sầm vào kho đạn. Lính Anh đứng trong bắn ra như mưa. Một lần
trúng đạn, em ngã nhào xuống, nhưng rồi ngồi dậy chạy luôn vào. Lính Anh khiếp
đảm bỏ chạy ra ngoài. Một tiếng nổ. Em thiếu sinh tiêu tán cùng với kho đạn Thị
Nghè của giặc”. Dưới bản tin có ghi chú “Kèn gọi lính, ngày 8-10-1945”. Như vậy
báo đưa tin theo tin của báo Kèn gọi lính
ngày 8-10-1945 và theo đó, kho đạn bị đốt cháy phải trước ngày 8-10-1945, ít ra
là ngày 7-10-1945.
Trên đây
là một số thông tin lấy từ báo chí ở thời điểm gần nhất với sự kiện liên quan đến
chuyện Lê Văn Tám. Tôi hi vọng là những người quan tâm đến chuyện này có thể
tìm kiếm và thu thập thêm thông tin báo chí mà tôi chưa được tiếp cận. Còn sự
kiện quân ta phá nổ kho đạn của địch ở Sài Gòn ngày 8-4-1946 mà Đại tướng Võ
Nguyên Giáp nói đến trong hồi ký Những năm
tháng không thể nào quên thuộc giai đoạn sau, không liên quan đến chuyện Lê
Văn Tám.
Trong những
báo trên, thông tin sớm nhất là Kèn gọi
lính do báo Cờ giải phóng trích
đăng ngày 5-11-1945. Rất tiếc là tôi không tìm thấy báo Kèn gọi lính mà căn cứ
theo đoạn trích của Cờ giải phóng, Theo thông tin này thì “một em thiếu nhi 16
tuổi” đốt kho đạn Thị Nghè trước ngày 8-10-1945, chứ không phải kho xăng Thị
Nghè. Báo Quyết chiến ngày 19?-10-1945
lại đưa tin “kho dầu Simon Piétri” bị “một chiến sĩ ta” đốt cháy vào trước ngày
17- 10-1945. Kho đạn ở Sở thú và kho xăng ở Thị Nghè là hai địa điểm gần nhau.
Như vậy theo những thông tin gần thời điểm xảy ra sự kiện thì vẫn còn phải tìm
thêm cứ liệu để xác định là kho đạn hay kho xăng và thời điểm là ngày nào, chắc
hẳn trước ngày 17-10-1945. Rồi người thực hiện là “em thiếu nhi 16 tuổi” (Kèn gọi lính) hay “một chiến sĩ ta” (Quyết chiến) hay “anh dân quân tẩm dầu
vào người” (Thời mới). Việc tẩm xăng
vào người, lúc đó cũng đã gây ra sự bàn luận. Thời mới đã bác bỏ chuyện người chiến sĩ tẩm dầu vào người xông vào
kho xăng vì “không phải thế, làm thế thì cố nhiên giặc Pháp ngăn lại ngay từ
khi chưa tới cửa kho” và cho rằng người chiến sĩ phải “dùng mưu nhiều lắm” để lẻn
vào gần kho xăng rồi mới “tẩm dầu vào người”, dùng súng bắn thủng các thùng
xăng và châm diêm vào người, nhảy vào đám thùng xăng. Không biết tác giả dựa
trên căn cứ nào nhưng về khách quan, cách trình bày này hợp lý hơn.
Với những
thông tin đã tập hợp, tuy chưa đủ và còn một số khía cạnh chưa xác minh được
(kho xăng hay kho đạn, thời điểm, người đốt) nhưng sự kiện kho xăng (hay đạn) của
địch ở Thị Nghè (hay gần Thị Nghè) bị ta đốt cháy là có thật. Ngay lúc đó, trên
báo chí đã xuất hiện những thông tin khác nhau về người đốt và cách đốt kho
xăng, tuy nhiên có điểm chung là gắn với hình ảnh một chiến sĩ tẩm xăng đốt
cháy kho xăng địch và không có tên Lê Văn Tám hay tính danh của người chiến sĩ
đã hi sinh. Điểm lại những tư liệu đã thu thập được thì càng thấy rõ, trên cơ sở sự kiện có thật và cả dư luận về
hình ảnh người chiến sĩ tẩm xăng thời đó, GS Trần Huy Liệu tạo dựng nên biểu tượng
“ngọn đuốc sống” gần với tên tuổi thiếu niên Lê Văn Tám.
Vấn đề thứ hai là cách ứng xử đối với biểu tượng ngọn đuốc sống
Lê Văn Tám”.
Trong bàn
luận cũng có người nghĩ rằng, “ngọn đuốc sống Lê Văn Tám” đã đi vào lòng dân rồi,
các nhà sử học không cần xác minh nhân vật đó có thật hay không, làm ảnh hưởng
tới một “biểu tượng”, một “tượng đài” yêu nước. Tôi quan niệm hoàn toàn khác.
Đối với sử
học, tôn trọng sự thật, tìm ra sự thật, xác minh sự thật là một nguyên tắc cao
cả thuộc về phẩm chất và chức năng của nhà sử học. Dĩ nhiên, với trách nhiệm
công dân, có những sự thật trong một bối cảnh cụ thể nào đó liên quan đến bí mật
quốc gia hay ảnh hưởng đến lợi ích sống còn của dân tộc, nhà sử học chưa được
công bố. Về nguyên lý, mọi kết quả nghiên cứu sử học càng khách quan và trung
thực, càng có tác dụng tích cực xây dựng nhận thức lịch sử đúng đắn và không có
gì mâu thuẫn với các biểu tượng lịch sử, các tượng đài yêu nước có giá trị được
nhân dân tôn vinh.
Ngay đối với
những biểu tượng mang tính huyền thoại, truyền thuyết như Lạc Long Quân-Âu Cơ,
Con Rồng-Cháu Tiên, Phù Đổng Thiên Vương, nỏ thần An Dương Vương, vua Lê trả
Gươm thần ở hồ Hoàn Kiếm..., kết quả nghiên cứa khoa học chỉ góp phần làm sáng
tỏ cơ sở khoa học, cốt lõi lịch sử của biểu tượng. Ví dụ những phát hiện khảo cổ
học về đồ sắt trong văn hóa Đông Sơn, kho mũi tên đồng ở cổ Loa và gần đây, hệ
thống lò đúc mũi tên đồng ngay trong thành Nội của thành Cổ Loa, giúp chúng ta
hiểu sâu sắc hơn cốt lõi lịch sử của hình ảnh ngựa sắt của Thánh Gióng, vai trò
của nỏ thần của An Dương Vương. Chuyện vua Lê trả Gươm thần ở hồ Hoàn Kiếm vẫn
nguyên giá trị thiêng liêng, không hề bị ảnh hưởng bởi việc nghiên cứu giống
rùa và tuổi thọ của rùa Hồ Gươm...
Biểu tượng
“ngọn đuốc sống Lê Văn Tám” thực sự đã được quảng bá rộng rãi, đi sâu vào tâm
thức của nhân dân, tiêu biểu cho tinh thần hi sinh anh đũng, ý chí xả thân vì
nước của quân dân ta trong buổi đầu của Nam kỳ kháng chiến. Một số đường phố,
trường học, công viên hiện nay đã mang tên Lê Văn Tám. Lời dặn của GS Trần Huy
Liệu là đến lúc đất nước yên ổn, cần phải nói lên sự thật về câu chuyện Lê Văn
Tám. Đó không phải là tên của nhân vật lịch sử có thật, nhưng phản ánh một sự
kiện lịch sử có thật, một tinh thần hi sinh vì Tổ quốc có thật. Đó là một biểu
tượng đã đi vào lịch sử mang tính phổ biến và thiêng liêng. Trả lại nguồn gốc
thật của biểu tượng này là để tạo lập một nền tảng nhận thức khoa học, khách
quan về quá trình hình thành biểu tượng Lê Văn Tám. Tôi nghĩ rằng tất cả các đường
phố, trường học, công viên... mang tên Lê Ván Tám vẫn để nguyên, vẫn được tôn
trọng như một biểu tượng với nội dung giải thích đúng sự thật và ngăn chặn mọi
ý đồ dựng lên lý lịch Lê Văn Tám như một nhân vật có thật rồi có người lại nhận
là hậu duệ của nhân vật này.
Đến đây,
tôi đã làm tròn trách nhiệm đối với lời dặn của cố GS Trần Huy Liệu, kèm thêm một
số đề xuất để xử lý câu chuyện Lê Văn Tám. Tôi hoàn toàn không coi đây là việc
làm trái với phẩm chất trung thực hay lương tâm của nhà sử học, cũng không ảnh
hưởng đến uy tín của GS Trần Huy Liệu và càng không làm đổ một biểu tượng hay
tượng đài yêu nước. Tôi nhấn mạnh, theo quan điểm của tôi, mọi biểu tượng hay tượng đài lịch sử chỉ có sức sống bền bỉ trong lịch
sử và trong lòng dân khi được xây dựng trên cơ sở khoa học khách quan, chân thực.
(trích dẫn
Tạp chí Xưa & Nay số 340 tháng 9-2009)
Dẫn nguồn:
https://vanminhsucsongviet.com/blog
https://vanminhsucsongviet.net/blog
THẢO LUẬN
Chưa có nhận xét cho Bài viết này.