TRÀ VÀ QUỐC HIỆU VIỆT NAM
07/07/2022 13:11
0 nhận xét
744 lượt xem
TRÀ VÀ QUỐC HIỆU VIỆT NAM
Từ
khi sinh ra trên trái đất, liên tục bị bành trướng, truy đuổi, tước quyền độc lập
lãnh thổ là tộc người Việt và người Do Thái. Người Do Thái đã phát kiến ra hệ
thống ngân hàng, hệ thống bảo hiểm làm tiền đề ra đời chủ nghĩa tư bản, cho tới
nay họ chưa có Tổ quốc. Người Việt xây dựng Tổ quốc nằm ở phía Nam Trung Hoa được
gọi là Việt Nam. Suốt chặng đường đạt được thành tựu ấy, chính dinh dưỡng quyết
định bảo tồn được sự sống của nòi Việt trong điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng khắc
nghiệt, nuôi dưỡng não bộ để tinh thần, trí tuệ tinh nhuệ là nhờ dư vị đắng ngọt
ngào của chè trong nước uống và đồ ăn hàng ngày của người Việt. Ơn cây chè… chè
khô được gọi là Trà Khang sinh dưỡng. Do đó, Nguyễn Du gọi là Trà Khang, các vị
Đế Vương Đại Việt có tục “Trà Lễ”
NGƯỜI ĐƯỢC TRAO SỨ MỆNH LỊCH SỬ
Năm
1556, Vua Lê Trung Tông là đời thứ 2 của nhà Lê trung hưng qua đời ở tuổi 22,
không có con kế vị. Nhân cơ hội này Trịnh Kiểm muốn soán ngôi. Ông cho người về
Cổ Am, Vĩnh Lại, Hải Dương để hỏi Trạng Trình – Nguyễn Bỉnh Khiêm là thầy nho,
y, lý, số lỗi lạc đương thời. Trạng trả lời bằng cách ngoảnh mặt vào đầy tớ và
nói:
-
Năm
ngoái mất mùa, thóc giống không tốt, đi tìm giống cũ mà gieo.
Đoạn
Trạng sai đầy tớ ra chùa bảo tiểu quét chùa, dâng hương để Trạng ra chơi. Đến
chùa, Trạng nói với tiểu:
-
Giữ
chùa thờ Phật thì được ăn oản.
Sứ
trở về Thanh Hóa, bẩm lại từng lời nói của Trạng. Trịnh Kiểm tìm cháu của Lam
Quốc công Lê Từ (anh ruột của Lê Lợi) là Lê Duy Bang lập lên nối ngôi.
Còn
Trạng cho người tiễn khách về, thở dài, xót xa cho Đại Việt. Đích về Đại Việt
phía Nam Trung Hoa đủ hùng cường, được công nhận thuộc quyền lãnh thổ của người
Việt đã gần kề. Vậy mà Trịnh, Mạc tham ngôi báu, dốc hết khí lực mải mê đánh
nhau. Khi đống xương nội chiến ngập đầu, Chiêm Thành lấy lại đất phía Nam. Tàu
tràn xuống phía Bắc, ngôi đó có còn mà giành nhau hay không?
Trạng
trầm ngâm, hai bản đồ Đại Việt, một được vua Lý Anh Tông cho lập năm 1171-1172
và một được Vua Lê Thanh Tông cho lập lại năm 1470 hiển hiện trong suy tưởng. Cả
hai có địa giới phía Bắc giáp với các vùng Châu Ung, Khâm Châu, Châu Liêm (nay
nằm trong tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây Trung Quốc). Địa giới phía Nam bản đồ thứ
nhất là Bắc Nghệ An, bản đồi thứ hai là Bắc Đà Giang. Bên kia sông là 4 tiểu
vương quốc: Tây Đồ Di, Hỏa Xá, Thủy Xá và Chân Lạp.
Tộc
người Việt, có ông tổ là cháu đời thứ 3 của vua Thần Nông, được sinh ra và định
cư với văn minh lúa nước ở phía bắc Bắc Kinh (Trung Quốc hiện nay). Họ bị tộc
người du mục từ hướng sa mạc Mông Cổ bành trướng, chiếm đất và họ dạt mãi, dạt
mãi… Đích đến mà cũng là điều kiện trường tồn của tộc người sống bằng nông nghiệp
là phía có lãnh thổ và quyền lãnh thổ được công nhận. Chặng đường về đích đã
ngót hơn 3500 năm. Mỗi thời, mỗi triều đại kế tục hay thừa trừ đề có những sứ mệnh
riêng trên con đường lịch sử chung về một mục đích đó. Mất 2000 năm phiêu dạt,
chạy né tộc người du mục và tìm được miền đất dừng chân đặt tên là Lạc Việt.
Vua Hùng dựng nước Văn Lang. An Dương Vương đổi thành Âu Lạc, xây thành Cổ Loa,
phát kiến nỏ thần. Rồi lãnh thổ của người Việt bị phủ nhận, thế lực các triều đại
phong kiến phương Bắc thay nhau cai trị gần 1000 năm:
·
Nhà Triệu (179TCN – 111 TCN)
·
Nhà Hán (111TCN – không xác định)
·
Nhà Ngô (220-280 sau CN)
·
Nhà Tấn (280-420)
·
Nam Triều bao gồm: Tống, Tề, Lương, Trần (420-542)
kết thúc bằng cuộc khởi nghĩa thành công của Lý Bôn với quốc hiệu Vạn Xân.
·
Nhà Tùy (602 – 618)
·
Nhà Đường (618-905). Đến 906 nhà Đường mới
công nhận đất phía Nam nước Tàu thuộc chủ quyền của người Việt.
Nhà
Đường thay thế nhà Hán tiếp tục phủ nhận và xâm lược lãnh thổ của người Việt. Ngô
Quyền đánh Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938. Đinh Tiên Hoàng dẹp yên 12 xứ
quân Ngô nổi loạn sau khi Ngô Quyền mất, đặt tên là Đại Cồ Việt (968-980), đóng đô ở Hoa Lư. Lê Đại Hành (980-1009)
đánh Tống Phía bắc, dẹp Chiêm phía Nam, bảo toàn bờ cõi Đại Cồ Việt. Lý Công Uẩn
dời đô từ Hoa Lư về Đại La, đổi tên nước thành Đại Việt. Triều Lý (1010-1225)
đuổi Chiêm 1069, phạt Tống (1075-1077). Nhà Trần được nhà Lý nhường Ngôi, gánh
sứ mệnh 3 lần chống Mông Nguyên xâm lược (năm 1258,1285,1288). Đại Việt được mở
thêm đến Hóa Châu do vua Chế Mân lấy công chúa Trần Huyền Trân cắt 3 châu Ma
Linh, Địa Lý, Bố Chính dâng tặng. Nhà Hồ (1400-1407) do Hồ Quý Ly lấy công chúa
Nhất Chi Mai con vua Trần Duệ Tông sau phế truất Trần Phế Đế nhưng rồi để lãnh
thổ Đại Việt rơi vào tay quân Minh gần 20 năm. Tuy nhà Hồ ngắn ngủi, nhưng đã kịp
phát kiến ra tiền giấy súng Thần Công và Hỏa hổ chiến trong quân sự. Lê Lợi đuổi
giặc Minh ra khỏi bờ cõi Đại Việt. Triều Lê (1428-1527) giữ được Hóa Châu 2 lần
khỏi rơi lại tay chiêm Thành. Vua Lê Thánh Tông đuổi Chiêm định biên giới phía
Nam đến bắc Đà Giang.
Đích
đã gần kề, chỉ còn mềm đức với nước nhỏ bên bờ nam Đà Giang và kính uy nước lớn
phía Bắc, Đại Việt đủ hùng cường, Trung Hoa thừa nhân lãnh thổ phía Nam Trung
Hoa là của người Việt, nhưng Trịnh - Mạc lại đang mải mê đánh nhau, Thuận Hóa
không người canh ngó. Nhập Nội Đại Hành Khiển Nguyễn Trãi những năm 1430, khi Đại
Việt mới tan bóng quân Minh, lãnh thổ bờ nam vẫn dừng lại ở Hóa Châu, ông đã
nhìn thấy đích về. Ông chưa kịp hành động giúp nhà Lê tăng tốc bánh xe lịch sử
về đích, mới chỉ nhắc Đại Việt bằng hai từ Việt Nam trong Địa Dư Nhất Thống Chí
thì đã bị thám án tru di vì người nhà là Thị Lộ bị nghi liên quan đến cái chết
đột ngột của vua Lê Thái Tông (1442) Trời sẽ trao tài đức và sứ mệnh cuối của
chặng đường về đích cho ai? Nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê và giết vua Lê Cung Hoàng.
Nguyễn Kim giúp Lê Trang Tông trung hưng nhà Lê thì đã chết vì bị đầu độc. Nguyễn
Uông con trai trưởng của Nguyễn Kim cũng bị hãm hại. Nhà Lê trung hưng mới sang
đời vua thứ 2 lại chết ở tuổi 22 chưa có con nối ngôi. Vận nước đang cần mà người
hiền tài chưa thấy.
Không
lâu sau Trạng được báo có khách là người thân cận của Nguyễn Hoàng, con trai út
của Nguyễn Kim. “Khi nhà Mạc lập nên, Nguyễn Kim sang Ai Lao thu nạp hào kiệt,
trung hưng nhà Lê, Nguyễn Hoàng mới 2 tuổi, được cậu là Ư Dĩ nuôi dạy”. Lớn lên
làm quan cho nhà Lê. Sau cái chết của cha lúc Hoàng 20 tuổi và cái chết của anh
trai là Nguyễn Uông, Hoàng cáo ốm xin từ quan. Linh tính mách bảo Trạng người
hiền tài đã ở rất gần. Trạng thảo nhanh vài đường bút và trao cho người của
Nguyễn Hoàng.
Trở
về, người phò tá của Nguyễn Hoàng mở ra “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”
(Một giải Hoành Sơn, dân đời đời dung sống). Cả tướng quân, trầm ngâm giây lát.
- Bẩm Đoan Quận Công, người Chiêm vốn khát đất
không kém gì người gốc du mục xưa muốn bá chủ nước Tàu. Chiêm tư thông với Tống
đánh Đại Việt năm 1069 nhưng không thành. Chế Mân xin lấy công chúa Huyền Trân,
tặng cho Đại Việt Hóa Châu (1361). Các đời vua Chiêm sau như: Cai Bí, Trà Toàn đã
2 lần đánh nhằm đoạt lại giải Hoành Sơn được vua Lê Thánh Tông mở năm 1470. Sở
dĩ đã hơn 100 năm thuộc về Đại Việt, Chiêm tộc không dòm ngó gì là vì một nền
văn minh Chiêm rực rỡ tồn tại trên đất đó hàng ngàn năm, sau bị lụi vong vì địa
tầng thổ nhưỡng thay đổi, lam sơn chướng khí nổi lên. Giải đất mà tộc người
khát đất buông hẳn. Trạng truyền là đời đời dung thân ắt Trạng phải có giải
pháp gì.
Cũng
nghĩ thế nên Nguyễn Hoàng sai người diện kiến Trạng một lần nữa. Trạng bảo: Có
chăng Chiêm muốn giành lại đất thì thời cơ đã đến với chúng. Bởi nội lực Đại Việt
đã bị Lê – Trịnh và Mạc đang triệt tiêu. Hơn lúc nào hết Hoành Sơn Đại Việt ta
cần có người tài đức trấn thủ.
Người
phò tá thân cận lưu lại nhà Trạng một thời gian. Khi trở về ngồi bên trà khuya
bẩm lại như thế và Nguyễn Hoàng đồng ý.
Sứ
giả rút ống tre những cuộn giấy trải lên bàn: Bẩm Đoan Quận Công, đây là tất cả
những gì mà Trạng đã truyền dạy. Đây là bản đồ Hoành Sơn, đặc điểm phong thủy.
Để giữ vững sự sống ở xứ Ô Châu ác địa thì có đây là cách thức làm đồ ăn, thuốc
ngừa – trị bênh, còn đây là phương thức giữ gìn môi sinh…
Nguyễn
Hoàng chăm chú xem, sau đó ông ngẩng lên:
Tốt.
Nhưng cái mà ta cần nhất lại thiếu đó là cách làm thức uống.
Thưa
Quân Công, hạ quan biết là con người chết khát trước khi chết đói, mà nước
Hoành Sơn độc đến mức những lính theo Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn, sau vua Lê
Thánh Tông tiến đánh Chiêm sống sót trở về đầu không còn tóc. Hạ quan có xin Trạng
chỉ dạy phần uống. Trạng đáp: Tất cả của cải Trời cho sẵn trong đất Việt. Đường
đi nước bước người Việt cần, các vị tiền bối đã để sẵn trong cách ăn uống Việt,
trong vốn từ vựng Việt, hậu duệ chỉ lấy ra dùng. Ăn ngày có 2,3 bữa có thể
quên, ta nhắc hộ. Còn tiếng Việt vừa mới nói, hãy tự tìm lấy”.
Hoàng
mỉm cười vì sự thông thái của Trạng. Còn người tâm phúc dường như trở nên phấn
chấn nói: Trạng dạy, theo trong Phú Thang, Phú Mạch, Phú Nhân Thân, Thần Nông Bản
Thảo,.. tiêu chuẩn cho bất kỳ trong đồ ăn thức uống nào đều phải có ngũ vị đắng,
cay, ngọt, mặn, chua và cuối cùng phải còn dư vị ngọt bùi đầu lưỡi mới tốt cho
sinh tồn. Vị ngọt kích hoạt hệ thống tế bào gốc trong vinh ngoài vệ, biến dinh
dưỡng thành năng lượng thiết yếu trong điều kiện khí hậu lạnh. Vị ngọt dung
thông vị mặn, kích hoạt hệ tân dịch và tuyến giáp trạng, tạo nên hệ thống tự giải
khát, thiết yếu trong điều kiện khí hậu khô cháy. Mọi hoạt động sinh học về tư
duy, thể chất của con người đều do thần kinh trung ương trong não bộ chỉ đạo,
nuôi dưỡng não bộ là dinh dưỡng trung tâm với sự kích hoạt não bộ bằng vị đắng
trong lương thực. Theo lời Trạng, hạ quan tìm trong Tiếng Việt một đồ uống đáp ứng
cả đắng ngọt là cây chè. Đầu tiên uống vào có vị đắng chát và dư vị ngọt bùi.
Hàm lượng ngọt chắc phải là nhu cầu rất lớn đối với cơ thể nên mới được gọi là
Chè. Phơi khô được gọi là Trà, có thể trộn trà, cho vào bất cứ đồ ăn thức uống
nào và vị trà mang lại hiệu quả dinh dưỡng kinh ngạc nên gặp điều thú vị bất ngờ
người Việt mình thốt lên Chà Chà… Đến đây cả hai người nhập chén trà cười khà
khà.
Nguyễn
Hoàng nhờ chị gái là Ngọc Bảo nói với Trịnh Kiểm cho Hoàng trấn thủ Thuận Hóa.
Kiểm nghĩ thầm Hoàng không chết trên đường do lực lượng Mạc lớn hơn rượt thuyền
đánh úp sau lưng thì vào đó cũng chết vì rừng thiêng nước độc. Kiểm đồng ý và
dâng biểu tâu vua Lê cho Hoàng đi.
Tâm
phúc của Nguyễn Hoàng trở lại hỏi Trạng về cây chè cho rõ hơn, và bí mật đưa Trạng
về phủ Nguyễn Hoàng. Trạng nhận ra Hoàng là người hiền tài, phò tá hiền tài mà
sứ mệnh lịch sử sẽ chọn là đây. Cổ xe đưa Đại Việt về đích Việt Nam bắt đầu
chuyển bánh. Trạng hạ bút “Việt Nam Khởi Tổ Xây Nền”.
TRÀ VÀ CÔNG CUỘC TRẤN THỦ THUẬN HÓA CỦA
NGUYỄN HOÀNG
Nhờ
hương vị, tính giải khát và sát khuẩn độc đáo, Trà được Nguyễn Bỉnh Khiêm ứng dụng
trong ẩm thực dược trị, y dược nghiệm phương và truyền dạy cho Nguyễn Hoàng.
Năm
1558, trà, cây chè theo Nguyễn Hoàng, cùng đoàn tùy tùng, những người đồng
hương Tống Sơn, Nghĩa Dũng (Thanh Hóa) vào Thuận Hóa. Giữa gió Lào, cát trắng,
nóng khô ran, người Việt vẫn tươi tốt. Rừng âm u, lam chướng nặng nề, người Việt
vẫn tráng kiện, tinh nhuệ. Được thế là nhờ có Trà có mặt trong đồ ăn, thức uống hàng ngày của người Việt.
Trà
làm các loại mắm hải, thủy sản vốn rất mặn theo công thức của người Hời, dịu đi
vị mặn, tăng độ đạm, dinh dưỡng.
Trà
làm cho nếp, gạo nấu cơm làm bánh ngon hơn…
Nhờ
trà mà các phương pháp dược trị gia đình dùng chế ngự các bệnh thiên thời bình
thường như nhức đầu, cảm cúm, ho, rối loạn do nhiễm trùng tiêu hóa làm đau bụng
tiêu chảy, ói mửa (thổ tả), kiết lị, viêm phổi, viêm họng các loại, hơi thở hôi
hám do các bệnh về rang miệng tiêu hóa gây nên rất công hiệu…
Trà
làm các công thức dinh dưỡng “ngũ vị” truyền thống Việt phát huy hiệu quả không
ngờ.
Trà
kết hợp với lá hồng dương pha vào rượu mạnh, loại trừ được kích thích của men
rượu làm nhức đầu, căng thái dương, rối loạn nhịp tim, tiêu hóa,… Trà làm tăng
tính giải khát trong rượu mạnh.
Trà
còn tạo màu sắc huyền ảo lung linh, hương vị thơm ngon trong rượu và thức uống
các loại. Rót uống rồi để ly không rất lâu hương vị vẫn quyện ở thành ly đáy cốc.
Nhờ
tính giải khát và công năng tăng cường hệ miễn dịch của trà mà sự sống của người
Việt trên giải Ô Châu ác địa được giữ vững và sinh sôi. Chủ quyền Đại Việt phía
nam được yên định.
Những
năm 1600, dư đảng nhà Mạc được dẹp yên, đất Thuận Quảng được thuần hóa trở nên
trù phú. Nguyễn Hoàng cho dâng trà tạ ơn Trời Phật. Một loạt các chùa như Thiên
Mụ, Bảo Châu… được xây dựng. Nghi thức Trà Lễ khởi phát từ đó.
CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ ĐÃ VỀ ĐÍCH
Năm
1613 sau 56 năm gắn bó với núi rừng Thuận Hóa, chúa Nguyễn Hoàng mệt nặng, ông
cho gọi người con trai thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên đến bên dặn dò:
Đất
Thuận Quảng phía Bắc có Hoành Sơn, Giang Linh hiểm trở, phía Nam có Hải Vân và
Thạch Bi Sơn. Núi sẵn vàng sắt, biển sẵn cá muối, là đất dụng võ của người anh
hùng. Cát cứ này phải được giữ vững, dân phải chăm, lính phải luyện để hậu thuẫn
cho vua Lê phòng khi Trịnh – Mạc triệt nhau làm Đại Việt suy yếu, Tàu lợi dụng
xâm chiếm. Còn không, cũng để đối phó với Chiêm phòng khi chúng chiếm được lãnh
thổ bên kia Đà Giang, được đà tràn sang Đại Việt.
Nguyễn
Hoàng mất. Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) thay cha chấn thủ Thuận Hóa. Được các
tướng hiền tài như Đào Duy Từ (là người đã ra lệnh chém hai thương nhân Hà Lan
vì xấc xược, để giữ gìn quốc thể), Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến. Ông cho xây
lũy Trường Dục “Lũy Thầy” và Nhật Lệ ở Quảng Bình. Ông vỗ về quân dân, trăm họ
vui phục gọi ông là chúa Phật.
Bấy
giờ 4 tiểu vương quốc láng giềng Đại Việt là Tây Đồ Di, Hỏa Xá, Thủy Xá, Chân Lạp
đang bị Chiêm quân gây chiến nhằm thôn tính. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên một mặt mở
rộng quan hệ ngoại giao, thương mại với các nước láng giềng gần xa, một mặt vỗ
an Chiêm tộc. Ông gả con gái thứ Ngọc Hoa cho một thương gia dòng dõi quý tộc
Nhật là Sotaro (Đại Lương) người Nagasaki. Công chúa út Ngọc Hòa (tức Ngọc Vạn)
cho vua Chân Lạp, và công chúa trưởng Ngọc Khoa cho hậu duệ của vua Chiêm. Dân
Việt bắt đầu ráo riết vượt địa giới Đà Giang, mang theo mỹ tục dùng trà và sống
thuận hòa với các tộc người bản địa. Nhờ cư dân Việt sinh sôi, phát triển mạnh,
qua các triều chúa Nguyễn, lãnh thổ thuộc 4 tiểu vương quốc nay là các tỉnh miền
Đông, miền Tây Nam Bộ, các đảo trong vịnh Xiêm La và Biển Đông dần dần sát nhập
vào bản đồ Đàng Trong của Đại Việt mà không gây ra một cuộc đổ máu nào.
Đại
Việt ở phía Nam Trung Hoa cùng cây chè đã đi hết chặng đường mở cõi, nhưng chưa
thống nhất một giải để về đích. Năm 1619 Trịnh Tùng đem quân vào Thuận Quảng
đánh chúa Nguyễn. Nguyễn Phúc Nguyên bắt đầu ngừng nộp thuế về Bắc Hà và xây dựng
riêng cơ đồ đóng đô ở Phú Xuân. Năm 1627 họ Trịnh vào Nam đánh họ Nguyễn vì cớ
chúa Nguyễn không đóng thuế cho vua Lê. Cuộc chiến kéo dài 45 năm trên đất Quảng
Bình, Hà Tĩnh. Năm 1675 chúa Trịnh – Nguyễn tạm dừng cuộc chiến, lấy sông Gianh
làm ranh giới phía Bắc (Đàng Ngoài) do chúa Trình cát cứ, phía Nam (Đàng Trong)
thuộc chúa Nguyễn.
Đàng
trong và đàng ngoài cần liền về một giải để về đích. Mặc dù có tư thù nhưng hình
như vì gia đạo mà hai họ không thể tiêu trừ nhau. Trịnh Kiểm đầu độc cha vợ là
Nguyễn Kim, hãm hại em vợ là Nguyễn Uông. Đất Thuận Hóa chở che cho Nguyễn
Hoàng. Chị gái Ngọc Bảo lấy Trịnh Kiểm. Con gái Nguyễn Hoàng là Ngọc Tú lấy Trịnh
Tráng cháu nội của Ngọc Bảo và Trịnh Kiểm. Bốn mươi lăm năm nội chiến Trịnh
Nguyễn, không phân thắng bại. Do đó, lịch sử Đại Việt cần có cơn lốc can qua
xóa tan giới tuyến để về đích Việt Nam.
VỀ ĐÍCH
Năm
1765 chúa Nguyễn Phúc Khoát băng hà, quyền thần Trương Phúc Loan lộng hành bắt
giam hoàng tử lớn của chúa Nguyễn Phúc Luân, lập hoàng tử nhỏ Nguyễn Phúc Thuần
lên nối ngôi. Trăm họ phẫn nộ. Năm 1771, ba anh em nhà Tây Sơn Nguyễn Nhạc,
Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ nổi dậy chống lại Trương Phúc Loan. Chúa Trịnh đàng ngoài
cho quân vào dẹp Trương Phúc Loan. Khi đó Tôn thất nhà Nguyễn nộp Trương Phúc
Loan cho quân Trịnh. Tháng 12/1774 Trịnh chiếm Phú Xuân. Anh em nhà Tây Sơn giảng
hòa với Trịnh. Nguyễn Nhạc năm 1777 được Trịnh phong làm Quảng Nam trấn thủ
tuyên úy đại sứ quốc công. Từ đó quân Tây Sơn dốc toàn bộ lực lượng quay sang tấn
công quân Nguyễn ở phía Nam. Năm 1778, chúa Nguyễn Phúc Thuần chết trận ở tuổi
24, cháu ruột là Nguyễn Phúc Anh 15 tuổi chạy thoát ra đảo Thổ Chu. Nguyễn Nhạc
tự xưng là Trung ương Hoàng Đế hiệu là Thái Đức lấy Đồ Bàn – Bình Định (kinh đô
Chiêm Thành cũ) làm kinh đô.
Năm
1786, Nguyễn Huệ chiếm thành Phú Xuân từ tay quân Trịnh, sau tiến ra Bắc lật
nhào họ Trịnh. Nguyễn Huệ được vua Lê Hiển Tông gả công chúa Ngọc Hân. Năm
1788, vua Lê băng hà, Vũ Văn Nhậm vốn là tướng của chúa Nguyễn, bị Tây Sơn bắt
năm 1786 ở Gia Định sau thành con rể của Nguyễn Nhạc lập Lê Duy Cẩn, cháu đích
tôn của vua Lê lên ngôi lấy hiệu là Chiêu Thống. Khi Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc
rút vào Nam, hào mục cát cứ nổi dậy. Trịnh Bồng (từ Trịnh Khải) trở lại Thăng
Long tự lập Yến Đô Vương lấn át vua Lê như trước. Vua Lê Chiêu Thống mời Nguyễn
Hữu Chỉnh (trước là tướng của Hoàng Ngũ Phúc nhà Trịnh sau theo Tây Sơn) từ Nghệ
An ra Thăng Long giúp. Tháng 5/1788 Nguyễn Huệ lần nữa kéo quân ra Thăng Long
giết Vũ Văn Nhậm, diệt Trịnh, nhưng Huệ nghe lời Chỉnh vẫn để Chiêu Thống làm
Giám quốc, nhưng quyền hành giao cho Ngô Văn Sở. Bắc Hà được sát nhập vào vùng
đất cai quản của Nguyễn Huệ. Sau, Chỉnh bị quân Tây Sơn do Ngô Văn Sở chỉ huy bắt
sống. Tháng 7/1788, vua Lê Chiêu Thống sang cầu viện nhà Thanh. Tôn Sĩ Nghị nói
với liêu thuộc: “Nước Nam xưa vốn thuộc Hán Đường, mãi đến đời Tống, họ Đinh mới
dây lên giữ đất, từ đời nọ sang đời kia gây thành nước độc lập. Nay cuộc thế đổi
thay, họ không giữ nổi, có lẽ trời cho ta chiếm quận huyện chăng”. Sau Nghị
dâng biểu tâu vua Càn Long: “Đại Việt là đất cũ của thiên tử ta, nay lấy lại
cho nhà Lê, rồi ta đặt binh giữ đất”. Tháng 11/1788, 29.000 quân thanh ồ ạt
sang Đại Việt, chiếm được Thăng Long.
Nguyễn
Huệ lên ngôi Hoàng Đế lấy hiệu là Quang Trung kéo quân ra Bắc. Mùa xuân Kỷ Dậu
1789, quân Thanh bị phá tan trên đất Bắc Hà. Vua Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu
(sau đó mất ở Yên Kinh năm 1793). Đại Việt lại chia 3 thuộc quyền 3 anh em nhà
Tây Sơn và họ lại quay ra chống đối nhau… Cũng từ đây Nguyễn Nhạc đoạn giao với
Nguyễn Huệ… Vì thế mà sử sách triều Tây Sơn không thể nhắc đích đến Việt Nam được!
Chè vẫn xanh trên các đồi nương Miền Trung, cao nguyên Nam Trung Bộ.
Cuộc
nội chiến nhà Nguyễn và anh em Tây Sơn bắt đầu năm 1777, sau khi Quang Trung mất
1792. Chúa Nguyễn Phúc Anh được các tướng Tây Sơn Bùi Thị Xuân, Ngô Văn Sở quay
sang quy phục, nhà Nguyễn trung hưng. Đại Việt liền một giải từ Cà mua đến Ải
Nam Quan – địa đầu Móng Cái. Năm 1802 chúa Nguyễn Phúc Anh được tôn lên ngôi
Hoàng Đế lấy hiệu là Gia Long và cho sứ sang nhà Thanh xin khôi phục quốc hiệu
Vạn Xuân nhưng Càn Long không thuận. Năm 1804 hai bên theo sự cương quyết của
Nhà Nguyễn đi đến thống nhất quốc hiệu mới của Đại Việt là Việt Nam. Tháng
8/1804 vua Gia Long làm lễ truy điệu và đưa di hài của vua Lê Chiêu Thống về Việt
Nam, án tang tại Lăng Bàn Thạch, truy hiệu Nghị Hoàng Đế.
Đích
Việt Nam đã về, trà vẫn dùng trong việc hoàn thiện bí mật quân lương và ẩm thực
dược trị Hoàng Gia. Trà có mặt trong 56 loại giải khát dinh dưỡng 4 mùa, 175
dòng rượu. Nhưng đến thời Minh Mệnh Hoàng Đế, Trà Lễ mới được truyền chính thức
với Lễ Sinh Dưỡng Trà được cử hành trong điện Liệt Thánh họ Nguyễn Phúc có chân
dung Nguyễn Bỉnh Khiêm và Bùi Thị Xuân. Từ đó, Nguyễn Du trong truyện kiều gọi
Trà là Trà Khang.
Nên nhớ:
Bùi Thị Xuân chính là tổ sư sáng chế Bánh Tráng, Bánh Tét và Bánh Hộc làm quân
lương cho lực lượng Tây Sơn. Sau này, khi cùng Ngô Văn Sở “tức Ngô Văn Sỉ” quay
sang quy phục chúa Nguyễn Phúc Anh, bà lại cải tiến ba loại bánh nói trên (nhất
là nhân bánh) có sự góp phần của trà trong nhân bánh và trong nếp. Chính các loại
quân lương này giúp cho quân lực chúa Nguyễn Phúc Anh đánh bại nhà Tây Sơn. Vua
Gia Long thống nhất Sơn Hà…
Những
năm 1930 -1935 cháu đời thứ 14 của Nhập Nội Đại Hành Khiển Nguyễn Trải từ đất
Nghệ An vào kinh thành Huế giúp một số gia đình Hoàng phái hoàn thiện điến tuyệt
mỹ về trà trong ẩm thực và dược trị…
Người
chép lại sử phân vân không biết có phải Nguyễn Trải, Nguyễn Bỉnh Khiêm dự báo về
một Việt Nam hôm nay bắt đầu từ việc uống trà không?
Dẫn nguồn:
https://vanminhsucsongviet.com/blog
https://vanminhsucsongviet.net/blog
THẢO LUẬN
Chưa có nhận xét cho Bài viết này.