Chân ruộng, sự tồn vong của dân tộc – Kỳ 6
06/07/2022 19:13
0 nhận xét
786 lượt xem
Kỳ 6 : Vì sao người Việt
phải ăn cơm ?
Nền văn minh lúa nước không đơn giản mang
yếu tố vật chất và tinh thần, nó còn hàm chứa những điều sâu xa hơn
trong cấu tạo cơ thể của người Việt mà khoa học hiện đại chưa lý
giải.
Các nhà nghiên cứu cho rằng nền văn minh lúa nước xuất
hiện tại khu vực Nam Trung Quốc và Đông Nam Á cách đây khoảng 1 vạn
năm. Cần nói qua đôi điều về lịch sử. Nếu chấp nhập tổ tiên của
chúng ta là Lạc Long Quân, con vua Kinh Dương Vương, cháu ba đời của vua
Thần Nông thì nước ta, khi ấy tên là Xích Quỷ, phía bắc giáp hồ
Động Đình (tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay), phía nam giáp nước Hồ
Tôn (Chiêm Thành), phía đông giáp Biển Đông và phía tây giáp Ba Thục
(Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay). Còn cương thổ nước Văn Lang, có 15 bộ,
bao gồm Ung Châu, Khâm Châu (Quảng Tây, Trung Quốc ngày nay). Cương thổ
này chính thức được Trung Quốc thừa nhận, bằng chứng là nó được ghi
rõ trong Đại Việt sử lược, mà Đại Việt sử lược là cuốn sách thất
truyền của ta, được Nhà Thanh cho in và lưu giữ trong Tứ khố toàn thư,
tất nhiên sách đã được sửa chữa cẩn thận, gạt bỏ tất cả những gì
không có lợi cho Trung Quốc. Cần nhớ rằng Nhà Thanh là triều đại nổi
tiếng câu nệ về chữ nghĩa, lịch sử thời này cho thấy rất nhiều vụ
kỳ án xuất phát từ chữ nghĩa mà ra. Như vậy là văn minh lúa nước
nằm gọn trong khu vực nước ta thời ấy kéo thẳng về phía cực nam
nước ta ngày nay. Người Trung Quốc “bản địa” ở phía bắc tổ tiên ta
ngày xưa không sống bằng lúa nước.
Cả một khu vực rộng lớn, ngày nay là
phía Nam Trung Quốc thẳng đến mũi Cà Mau, được thiên nhiên tạo thành
một bố cục toàn bích của sự sống với cây lúa là “chủ đạo”. Và cơm
gạo là nguồn dinh dưỡng chính của người Việt.
Vì sao sao người Việt phải ăn cơm ? Đó là
một câu hỏi ngớ ngẩn, nhưng nếu nghĩ cho kỹ thì nó lại giống như câu
hỏi “Vì sao chúng ta phải thở ?”. Nếu không thở thì con người sẽ
chết. Không ăn cơm có thể không chết, nhưng sẽ “có vấn đề”.
Lúa để lâu năm, gọi là “trùm mễ”, y học cổ
truyền gọi là “nhụ mễ”, là một vị thuốc quý. Đó là thứ lúa để
lâu trên 10 năm. “Nhụ mễ” chủ trị bệnh bị đói lâu ngày khiến cho men
chuyển hóa bị cạn kiệt, đường tiêu hóa mất hết cơ chế hấp thu, nếu
ăn vào sẽ không tiêu (thương thực), có thể dẫn đến tử vong. Khi ấy
chỉ cần làm cho nôn hết thức ăn ra, rồi dùng 3 thìa canh nước cháo
“nhụ mễ” cho uống, men tiêu hóa sẽ được tái sinh. Người dùng quá
nhiều kháng sinh, men chuyển hóa cũng bị tiêu tan, ăn uống bị ách
tắc. Trường hợp này dùng cháo “nhụ mễ” cũng chữa khỏi.
Đặc biệt, lúa để trên 30 năm gọi là
“Triếp dư niên cứu tô mễ” (lúa để lâu trên 30 năm cứu người), là vị
thuốc rất quý, chữa được hàng chục bệnh khác nhau, trong đó có bệnh
bạch cầu tăng trưởng đột biến khiến cho người bệnh ở trong giai đoạn
khởi phát ung thư máu.
Sự ứng dụng của “trùm mễ” cho thấy điều
gì ? Nó cho thấy cấu tạo sinh học của cơ thể người Việt nói riêng,
của người sống trong nền văn minh lúa nước nói chung, có sự tương tác
với nguồn thức ăn chính là lúa gạo. Bình thường, lúa gạo nuôi sống
con người. Cơm, cộng thêm một ít thịt cá và rau lá, là đủ mọi thứ
dinh dưỡng. Cơm còn có tác dụng tuần hoàn, cân bằng tiêu hóa và đào
thải chất độc. Khi bị mất cân bằng tiêu hóa, chính lúa gạo giúp con
người khôi phục lại. Bởi vậy người Việt Nam mà không ăn cơm, có lẽ
trước sau cũng phát sinh một “vấn đề” nào đó trong cơ thể. Và không
phải ngẫu nhiên mà bà con nông dân miền trung thường nói “thuốc nam
thuốc bắc … không bằng cơm”.
Cơ thể người Việt không chỉ thích hợp với
việc ăn cơm mà còn thích hợp với giống lúa tự nhiên truyền thống. Ăn
cơm từ các giống lúa đó, cơ thể người Việt có khả năng “kháng
bệnh”. Chúng ta có thể khôi phục lại các giống lúa của tổ tiên mình
hay không ? Câu trả lời là: Có, nếu như chúng ta muốn. Tuy gọi là đã bị
“tiêu diệt”, nhưng người dân bằng cách này cách khác vẫn bảo tồn
được 18 giống lúa cổ truyền.
Vấn đề là các giống lúa nguyên bản cổ
truyền nuôi sống người Việt Nam hiện nay không còn được trồng trọt
nữa, thay vào đó là hàng loạt các giống lúa đã lai tạo, đã “biến
đổi gen”. Ngày xưa, người Việt ta trồng hàng chục các giống lúa tự
nhiên, trong đó chủ yếu là lúa chiêm ở miền bắc, lúa gòn ở miền nam
(cũng là giống lúa chiêm từ miền bắc đưa vào) trồng ở các vụ
chính; lúa bông giang trồng vào lúc thời tiết thích hợp; lúa đen (bà
con nông dân thường gọi là gạo lứt) trồng ở ruộng thổ không cần
nước; lúa ba trăng trồng ruộng nước ruộng khô đều được; lúa nhe (còn
gọi là lúa de) được trồng ở miền nam từ thời Chúa Nguyễn Phúc Trăn…
Riêng lúa nhe là giống lúa quý được phát triển mạnh từ thời vua Minh
Mệnh, là thứ lúa “vua ăn”, ngày xưa các vùng Cao Lãnh, Thanh Bình,
Tam Nông, Du Long (thuộc tỉnh Đồng Tháp bây giờ) chuyên trồng lúa nhe
bán cho triều đình, nên được gọi chung là vùng Hồng Ngự (nghĩa là
vùng nuôi sống, bảo bọc, che chở sự sống cho Hoàng Triều). Ngoài ra
còn có nhiều giống lúa khác trồng theo đặc điểm của từng vùng thổ
nhưỡng.
Ruộng nào lúa ấy là một trong những cách
quản lý nông nghiệp nghiêm ngặt vào thời Nhà Nguyễn. Triều đình ra
chiếu dụ các địa phương phải dự trữ giống trong 2 năm và quy định
ruộng vùng này không được mua giống từ vùng khác. Hàng năm Khâm mạng
triều đình đi kiểm tra giống trước khi gieo trồng. Ý nghĩa của ruộng
nào lúa ấy thật là lớn lao, nó giữ được chất lượng của hạt gạo
và giữ được sự phát triển tự nhiên của cây lúa. Ngày xưa lúa không
bị sâu bệnh. Ngay cả bệnh đạo ôn mới phát triển từ năm 1891, thời vua
Thành Thái, khi người Pháp mang “phân khoa học” sang.
Ở miền Nam cho đến năm 1964, nông dân vẫn
trồng các giống lúa cũ, cộng thêm các giống Nàng Hương, Nàng Thơm,
Huyết Rồng… tuy là các giống lúa đã lai tạo nhưng căn bản vẫn là
giống lúa tốt. Các giống lúa cũ trồng trên đất ruộng cũ rất ít bị
sâu bệnh, không cần nhiều phân bón (chỉ dùng tro và một lượng phân
chuồng không đáng kể), nên chi phí rất thấp.
Từ năm 1965, người Mỹ bắt đầu đem giống
lúa Thần Nông từ Phillipine sang, ban đầu là cho không nông dân cùng các
“phụ kiện”. Vụ Đông Xuân đầu tiên của năm 1966, lúa Thần Nông đem lại
“thành công rực rỡ” trên đồng ruộng, với sản lượng đạt tới 2,5 – 3
tấn/1 mẫu đạc điền (5000 m2), tức 5 – 6 tấn/1 ha. Trong khi, với giống
lúa cũ, mỗi mẫu đạc điền sản lượng chỉ đạt khoảng 1,2 – 1,5 tấn.
Rõ ràng giống lúa mà người Mỹ mang tới tỏ ra “ưu việt” hơn nhiều.
Thế nhưng chỉ 1 vụ sau đó, vào năm 1967,
một loạt bất ngờ lại xảy ra : sâu bệnh phát triển mạnh. Muốn giữ
được sản lượng thì phải tăng phân bón hóa học và sử dụng rộng rãi
hơn thuốc trừ sâu bệnh. Theo tính toán lúc đó, làm lúa Thần Nông
người nông dân chỉ lãi chưa tới 1/3 sản lượng do phần lớn chi phí
chạy vào túi các nhà sản xuất phân bón và hóa chất, còn làm lúa
theo “kiểu cũ”, tỷ lệ lãi lên tới trên 80% do chi phí rất ít, đó là
chưa kể cái lợi từ các sản vật phụ trên chân ruộng không bị hóa
chất hủy diệt… (còn tiếp)
"Dân
tộc Việt có một nền Văn Hiến huy hoàng, tất phải có một tương lai sáng lạn"
Dẫn nguồn:
https://vanminhsucsongviet.com/blog
https://vanminhsucsongviet.net/blog
THẢO LUẬN
Chưa có nhận xét cho Bài viết này.